Thứ Ba, 29 tháng 4, 2014

Giả Thuyết về Annunaki





Thần thoại của vùng Lưỡng Hà


Theo thần thoại cổ đại vùng Lưỡng Hà, Annunaki là một từ có nghĩa là: " Từ bầu trời đến Trái đất. " Anu là vị thần tối cao trong hệ thống niềm tin của người Sumer. Ki là nữ thần của trái đất. Con đẻ của Anu và Ki được gọi là Annunaki. Thay vì hiểu theo nghĩa đen, Anu và Ki nên được hiểu theo nghĩa bóng là những người từ trên trời đến trái đất. Các Annunaki chỉ đơn giản là những đứa trẻ mà Anu đã tạo ra trên hành tinh Ki (trái đất). Các Annunaki từng được phục vụ bởi chủng loài Igigi, cho đến khi Igigi nổi dậy. Do đó các Annunaki cần phải tạo ra loài người để làm người phục vụ. Những người phục vụ không phải là nô lệ; họ đã được trân trọng ở địa vị cao, và được tạo ra chỉ với mục đích làm giảm công việc lao động cho các vị thần. Ban đầu, nhân loại đã không có tuổi thọ giới hạn, vì thế các vị thần chỉ có thể kiểm soát nạn nhân mãn qua lũ lụt, dịch bệnh, và nạn đói. Trong trận lũ cuối cùng, các vị thần đã xúc động vì khổ đau của nhân loại, và như vậy loài người đã được tạo ra với một tuổi thọ nhất định.



Trận hông thủy mà Ziusudra (Noah) sống sót với vợ trên chiếc tàu là trận hồng thủy cuối cùng có thể được tìm thấy trong Atra - Hasis và Epic của Gilgamesh . Ngoài ra còn một huyền thần thoại khác, đó là huyền thoại về mối quan hệ giữa Anu và Ki. Anu được gọi là huyền thoại về Chúa trời (sky god) và Mẹ Trái đất. Có một vị thần gọi là Enlil trông coi và kiểm soát bầu trời.

Câu chuyện về Annunaki


Annunaki là một chủng loại sinh vật đã đi băng qua không gian đến cư trú tại hành tinh Trái đất. Các Annunaki cai trị một chủng loài gọi là "Igigi". Loài Igigi là người làm việc phục tùng các Annunaki . Nhưng sau 2500 năm của lao động, Igigis nổi dậy chống lại lại các Annunaki. Thần Enki (lãnh đạo Annunaki) đề nghị tạo ra một chủng loại mới. Sau khi xem xét các điều kiện, rồi ở một nơi được gọi là Eden, Annunaki đã tạo ra loài người. “Đất sét trộn với thịt và máu” của một Anunaki để chủng loài mới này có thể có sự khôn ngoan của thần thánh. Nintu đã đưa một chút “chất mềm” vào " vỏ sò " và chín tháng sau đó, con người được sinh ra. Công nghệ tinh xảo về gen đã thành công, con người đã chứng minh nó là một lực lượng lao động tốt.

Huyền thoại cổ xưa về một vụ va chạm trong hệ mặt trời



Theo Zecharia Sitchin, hệ mặt trời của chúng ta vốn có 10 hành tinh. Sau đó đã có một hành tinh đã bị va chạm. Từ mảnh vỡ của cú va chạm, một nửa trở thành hành tinh Trái Đất, trong khi nửa còn lại đã trở thành vành đai tiểu hành tinh. Nguyên nhân của vụ tai nạn được cho là do một vật thể từ ngoài vũ trụ.
Nibiru là một hành tinh lớn (gấp nhiều lần trái đất) có quỹ đạo rất rộng. Đường bay của Nibiru cắt ngang thái dương hệ theo chu kỳ khoảng 3500 năm một lần.
Hệ mặt trời của chúng ta, tính cả Nibiru, có tổng cộng là 12 hành tinh.
Người ta hay gọi Nibiru là hành tinh thứ 12.

Các Tôn Giáo vùng Trung Đông


Người Sumer cổ đại thờ phụng các thần Annunaki. Trong tôn giáo Sumer, tín đồ bị cấm nhìn thấy trực tiếp hình hài thực sự của các vị thần Annunaki, vì vậy, người Sumer mô tả các thần của họ như là một động vật giống người (anthropomorphic) thay vì hình thái thực sự của các vị thần. Sau một thời gian dài, các nhóm dân tộc Sumer bị biến mất, rồi thay bằng dân tộc Akkadians, sau đó là dân Babylon. Dần dần, tôn giáo cũ đã được chuyển đổi thành các tôn giáo độc thần như Zoroastrianism và Chrisitianity .

Đặc điểm của Annunaki


Ngoại hình


Người ta không biết ngoại hình của các Annunaki một cách rõ ràng, mặc dù theo thần thoại Trung Đông, các Annunaki có thể giống như con người ở dạng nguyên bản, nhưng chiều cao lớn hơn. Các Annunaki là một chủng loại thay đổi hình dạng và có thể biến đổi thành nhiều hình dạng với kích cỡ khác nhau.

Mức trí tuệ


Đương nhiên Anunnaki là loài có khả năng tư duy. Có một số người cho rằng Anunnaki là chủng loài có siêu trí tuệ. Siêu trí tuệ này, nếu so sánh với trí tuệ của con người, sẽ giống như sự so sánh trí tuệ của con người với loài tinh tinh .

Ngôn ngữ


Theo các nhà lý thuyết âm mưu (conspiracy theorist), ngôn ngữ Sumer dường như là ngôn ngữ của loài Annunaki. Nhiều người tin rằng đây là ngôn ngữ đầu tiên được thể hiện bằng chữ viết và như vậy, ngôn ngữ của các Annunaki là ngôn ngữ “tiền-Sumer”. Nếu điều này là đúng, ngôn ngữ gần gũi nhất với các Annunaki sẽ phải là ngôn ngữ Hungary. Trong lịch sử tiền hiện đại, nhiều nhà ngôn ngữ học đã tìm thấy nhiều điểm tương đồng giữa các ngôn ngữ Hungary và ngôn ngữ Sumer. Người Hungary được cho là nhóm người Sumer sống lưu vong, nhiều truyền thuyết từ nền văn hóa Hungary cổ liên quan đến huyền thoại Annunaki. Dân tộc Manysi và dân tộc Khanty, cũng như người Hungary được xếp vào gia đình ngôn ngữ “Ugaric”. Có người tin rằng Mansi là hậu duệ của người Sumer . Tuy nhiên, mối quan hệ thân ngôn ngữ (linguistic affinities) tìm thấy cùng với tiếng Do Thái (Hebrew), đã ám chỉ các mối liên hệ khác của ngôn ngữ Sumer với các ngôn ngữ Semetic, tức loại ngôn ngữ đầu tiên dùng để viết Kinh Thánh. Akkadian là một ngôn ngữ semetic đã được người Sumer sử dụng thường xuyên trong thời kỳ người Akkadians đi vào Iraq.

Sụp đổ của tháp Babel – Sự thoái hóa ngôn ngữ nguyên thủy


Người ta tin rằng ngôn ngữ Sumer cổ đại đã biến thể sang nhiều ngôn ngữ khác nhau để tạo ra các nhóm ngôn ngữ chính mà chúng ta được biết bây giờ. Ngôn ngữ của Annunaki được cho là một ngôn ngữ hàm chứa rất nhiều logic, có nghĩa nó là một ngôn ngữ có độ chính xác cao, và những gì được nói đến trong ngôn ngữ đó đều được diễn tả đặc biệt. Nếu vậy, thì ngôn ngữ Annunaki có ngữ pháp rất tinh vi, mất rất nhiều thời gian học tập . Khi ngôn ngữ nguyên thủy của loài người bắt đầu thoái hóa, ví dụ khi ngôn ngữ không còn các “case” và “signature” thì cấu trúc ngữ pháp của ngôn ngữ nguyên thủy có thể đã bị mất rất nhiều. Người ta thấy ngôn ngữ Hungary có nhiều cấu trúc dường như xa lạ với ngôn ngữ láng giềng Ấn-Âu (indo-European) của nó. Ngôn ngữ Do Thái (Hebrew), cũng có mối quan hệ thân ngôn ngữ, ám chỉ mối liên hệ giữa ngôn ngữ Sumer và Semetic.

Mối quan hệ giữa Annunaki với các chủng loài khác


Reptilians


Các Reptilians là một loài đến từ hành tinh khác và được đồn đại là có thật. Cũng không chắc là Anunnaki hoặc Reptillians là hai loài riêng biệt, hoặc thực tế chúng là cùng một loài hoặc một trong hai chi nhánh của nhau. Reptilians cũng được ghi nhận là loài có hình dạng thay đổi, và có kiến ​​thức về kỹ thuật di truyền. Một số vị thần cổ đại, được tôn thờ trong những tôn giáo lớn thủa xưa, được cho là Reptilians, đã quyến dụ con người với mong muốn được con người tôn kính như một vị thần! Giống như người Sumer cũng đã từng tôn kính các Annunaki. Sự khác biệt là các Reptillians là loài bò sát có hình dạng giống người nhưng có vảy (và đôi khi cũng được mô tả là loài bò sát không có vảy). Reptilians đã được biết là có một loài bẩm sinh ác độc. Nhưng mặc dù vậy, vẫn có tồn tại loài Reptilia phúc hậu. Bản chất của Annunaki là không rõ.

Pleiadians


Các Pleiadians là một loài đến từ hành tinh khác. Không chắc Anunnaki và Pleiadians là hai loài riêng biệt, hoặc họ là cùng một loài, hoặc họ là một trong hai chi nhánh của nhau. Pleiadians đã được ghi nhận như là một chủng loài nhân hậu, luôn muốn thúc đẩy hòa bình và thịnh vượng. Không có thông tin liệu họ có tiến hành các hoạt động liên quan đến việc sáng tạo nhân loại hay không? Khó có thể liên hệ các bản chất của Annunaki với Pleiadians. Cũng không rõ là các thần linh trong các tôn giáo thời cổ đại có phải là Pleiadians hay không? (mặc dù Chúa Kitô đã được gọi một cách gợi ý dưới cái tên “Jmannuel ").

Các Pleiadians có hình thể rất khác nhau. Loại phổ biến nhất là gọi là người Nordic (Bắc Âu). Hình thể đặc thù của Pleiadians có thể là những người tóc vàng mắt xanh cho đến những người giống bạch tạng. Vóc dáng của họ rất cao to và khối lượng cơ bắp lớn hơn. Họ đã được gọi là người “Bắc Âu” vì họ giống với người ở bán đảo Scandinavi . Ngoài ra còn có các biến thể khác của Pleiadians có màu da tối, như một biến thể Pleiadians giống người da đen. Một biến thể khác làm cho Pleiadians có hình thái giống người phía Đông Ấn Độ. Tuy vậy, hình dạng đặc trưng nhất của Pleiadians là hình dạng giống người Bắc Âu. Pleiadians trông giống như con người nhưng có thể họ đã đến hành tinh trái đất này từ nhiều thời kỳ trước đây. Nếu Pleiadians trông giống như con người, họ cũng có thể liên quan đến các Annunaki, chủng loài được biết như là "hình ảnh của loài người"

Greys


Chủng loại Grey ít được biết đến. Grey là một chủng loại hoàn toàn không có giới tính (genderless), có khả năng thần giao cách cảm, có cái đầu lớn biểu hiện cho sự thông minh . Cả hai loài Greys và Annunaki đều có kinh nghiệm trong kỹ thuật di truyền, ví dụ như Greys sử dụng công nghệ nhân bản chính mình hoặc tạo một bào thai lai với con người, trong khi Pleiadians tạo ra phiên bản bào thai của chính mình. Có thể, chủng loài Greys (hoặc một số trong số họ) là một chủng phục vụ cho Anunnaki, nhưng mối quan hệ giữa hai chủng loại còn là điều không rõ ràng.

Hành tinh mẹ của các chủng loài ngoài trái đất


Nibiru


Nibiru là tên gọi cho một hành tinh hay cho một vương quốc nhỏ chưa ra đời. Nó có các hành tinh quay xung quanh và các thiên thể (chẳng hạn như các tiểu hành tinh nhỏ) của riêng nó. Nibiru có thể là hành tinh mẹ nơi sinh ra các Annunaki. Nơi này cũng đã được giả thuyết là quê hương của chủng loài Reptilians.


Vương quốc của Thiên Chúa (The kingdom of God)


Có giả thuyết cho rằng Annunaki là những thiên thần được tạo ra bởi Thiên Chúa. Như vậy, hành tinh mẹ của họ chính là Vương Quốc của Thiên Chúa, cái mà người Hồi Giáo gọi là Paradise và thế giới phương Tây gọi là Heaven (thực sự có nghĩa là những gì chúng ta nhìn thấy trên bầu trời ) .

Lý thuyết này chỉ đúng nếu Anunnaki là tôi tớ của Thượng Đế Abraham, có nghĩa Abraham là vị thần của họ. Theo quan điểm Hồi giáo, Anunnaki có thể được tự do làm theo ý chí ( jinn hoặc djinn ) riêng của mình hoặc tuân theo mệnh lệnh của Thượng Đế. Theo quan điểm Kitô giáo hiện nay, Anunnaki có thể là thiên sứ tuân phục lệnh của Chúa, hoặc có thể là thiên sứ sa ngã, không vâng lời Thiên Chúa (để tiếp tục theo đuổi những ham muốn riêng của họ). Các nhà lý thuyết âm mưu cho rằng chủng loại Reptilia chính là con cháu của các thiên thần sa ngã, và theo quan điểm Hồi giáo, họ là một trong những jinns (Quỷ) và Brittani (người nói ngôn ngữ Celtic) là người cai trị của Annunaki.

Văn hóa của loài Anunnaki

Không rõ về văn hóa của loài Annunaki. Tuy nhiên, các mẫu thiết kế kiến trúc có thể là rất giống với các mẫu thiết kế được sử dụng bởi người Sumer .

Tôn Giáo


Không rõ về Tôn giáo của người Anunnaki. Có khả năng Annunaki có ba tôn giáo .

Tôn giáo độc thần: Thờ phụng Thiên Chúa Abraham (như trong tài liệu mà người Sumarians đã ghi chép những câu chuyện về họ, song song với những câu chuyện trong Kinh thánh Cựu Ước). Có bằng chứng cho thấy các Annunaki được chỉ huy bởi Thiên Chúa, hoặc hành động của họ kết cục là sai lầm, nhưng tất cả đều do chủ đích của Thiên Chúa.
Tôn giáo đa thần: như tôn giáo của người Sumer
Vô thần: Một số người tin Annunaki theo triết lý Vô thần vì họ đã có tiến bộ cực cao trong ngành công nghệ. Annunaki sẽ từ chối một hiện sinh tối cao trong vũ trụ giống như một số người trong xã hội tiên tiến của chúng tôi ngày nay.

Tổng Kết về giả thuyết Annanuki


Nơi gặp gỡ giữa các quan điểm đối nghịch về nguồn gốc loài người


Nếu thuyết về tiến hóa của Darwin đã đưa đến một cuộc xung đột rất lớn với quan điểm của các tôn giáo trên thế giới, thì thuyết về Anunnaki lại đóng một vai trò như là một điểm hội tụ, có thể hóa giải các mâu thuẫn cho các nhà tiến hóa luận, sáng tạo luận và nhà nghiên cứu sử cổ đại.

Giả thuyết về Anunnaki dựa trên các cuộc khai quật tìm thấy các tài liệu và hiện vật cổ xưa. Đây là các bằng chứng xác nhận các nền văn minh cổ đại đã từng được trợ giúp bởi người ngoài trái đất. Trong các bản thảo cổ xưa, có một số thông tin ngụ ý rằng các nền văn minh cổ đại đã có được kiến ​​thức khoa học tiên tiến mà con người chúng ta đang biết trong thời kỳ hiện đại Mô hình chuỗi xoắn kép của DNA, thể hiện ở biểu tượng con rắn xoắn kép trên một cái cây biểu, chính là hình ảnh phổ biến trong số những biểu tượng y tế ngày nay. Một sự thực là biểu tượng con rắn xoắn kép đã được dựa trên mô hình AND. Đó chính là bằng chứng cho thấy rất xa xưa trong cổ đại đã tồn tại những kiến ​​thức về mô hình bộ gen DNA. Các bản văn phụng vụ cổ xưa, di tích của vùng Lưỡng Hà đã được liên kết với đoạn khác nhau trong Kinh thánh Hebrew. Ví dụ, sử thi của Gilgamesh là tương đồng của câu chuyện về Noah Ark, và kinh Sáng thế ký (Genesis) trong Torah phù hợp với truyền thuyết sáng tạo của vùng Sumer có liên quan đến các Annunaki .

Các thuyết âm mưu - Conspiracy theories


Trong hiện đại Các thuyết âm mưu xoay quanh các chủ đề như vụ 11/9, và các kế hoạch bí mật của các tầng lớp trên thế giới như New World Order. Bên cạnh đó là giả thuyết về các Anunnaki. Các Annunaki thường liên quan Reptillians và cả hai được cho là cùng loài. Có thông tin cho rằng các tầng lớp nắm giữ quyền lực cao trên trái đất thuộc về một trong những chủng Annunaki.

Phạm Doãn



-----

Giả Thuyết của Sitchin về Nguồn Gốc Loài Người

Tác giả : Chung Huynh L


Tựa đề chính:

Bí ẩn về Annunaki, hành tinh Nibiru (X) và giả thuyết người ngoài hành tinh tạo ra con người


Zecharia Sitchin (tiếng Nga: Захария Ситчин; Azerbaijan: Zaxariya Sitçin) sinh ngày 11 tháng 7 năm 1920, mất ngày 09 tháng 10 năm 2010 [1] là một người Mỹ gốc Azerbaijan là tác giả của hàng loạt cuốn sách đưa ra giải thích về nguồn gốc loài người liên quan đến các người ngoài hành tinh cổ đại. Sitchin cho rằng nền văn hóa Sumer cổ đại (Lưỡng Hà) được tạo ra từ các Anunnaki, một sinh vật tiên tiến đến từ hành tinh có vị trí xa nhất trong Thái dương hệ, xếp sau Hải vương tinh, được gọi là Nibiru. Ông tin rằng hành tinh Nibiru có chu kỳ quỹ đạo 3.600 năm xoay quanh mặt trời , và khẳng định rằng thần thoại Sumer có đề cập đến luận điểm này. Sách của Sitchin đã bán được hàng triệu bản trên toàn thế giới và đã được dịch ra hơn 25 ngôn ngữ. Giả thuyết của Sitchin đã bị các nhà khoa học và các học giả phản bác. Tác phẩm của ông đã bị chỉ trích vì phương pháp sai lầm và dịch sai của bản văn cổ cũng như các tuyên bố thiên văn học và khoa học thiếu chính xác. – Theo Wiki
Lưu ý: Trước đây hành tinh thứ 9 là Pluto (trước đây gọi là Sao Diêm Vương). Tuy nhiên đến tháng 8 năm 2006, hành tinh này đã được xét lại và với các yếu tố về khối lượng, đường kính và khả năng phản chiếu ánh sáng quá thấp so với 8 hành tinh còn lại, Pluto đã bị loại ra khỏi danh sách các hành tinh của Hệ Mặt Trời. Cho nên chính thức trong hệ mặt trời chỉ có 8 hành tinh.
Bài viết này tham khảo sách của Sitchin nên vẫn giữ nguyên lý luận của ông lúc đó gồm 9 hành tinh, nên Nibiru được gọi là hành tinh thứ 10.


Anunnaki là ai?



Trong các bản văn tự cổ, Anunnaki thường được đề cập để chỉ đến một nhóm các vị thần, một cái tên bắt nguồn từ tên của trời và đất. Anu và Ki được một số diễn giải khác là “dòng máu hoàng gia” hay “con cháu hoàng tộc“. Một số người tin rằng Anunnaki là những đứa con trai và con gái của trời và đất. Tuy nhiên, giả thuyết gây tranh cãi lớn nhất đó là ý kiến cho rằng họ chính là tổ tiên đã tạo ra nền văn minhLưỡng Hà ( vùng châu thổ sông Euphrates và sông Tigris – Trung Đông). Cũng theo giả thuyết này, những sinh vật ngoài trái đất chính là tác giả của những phát minh vượt bậc thời bấy giờ, đến từ hành tinh Nibiru hay còn gọi là Hành tinh X (Planet X).







Những bức tượng của người Sumer cho thấy hình dạng các Anunnaki được cho là có phần đầu giống rắn hoặc loài bò sát.


Văn hóa Sumer và Anunaki


Trong cuốn sách của Zecharia Sitchin, ông cho rằng nền văn minh cổ đại Sumer ( Sumer : ”những người đến từ trời cao” ;) được tạo bởi Anunnaki, một sinh vật đến từ một nơi ngoài trái đất, đó là hành tinh Nibiru, xếp sau hành tinh xa nhất hệ mặt trời là Hải vương tinh. Ông cũng giả thuyết đây là một hành tinh đang trong thời kỳ diệt vong, và các sinh vật này du hành đến trái đất để tìm kiếm vàng, thứ mà họ sử dụng để chế biến thành nguyên liệu có thể cứu bầu khí quyển đang chết dần trên hành tinh của họ. Theo giả thuyết của tác giả Sitchin, Anunnaki là sinh vật đến từ hành tinh thứ 1o trong Thái Dương Hệ của chúng ta. Họ đã định cư trên trái đất từ 432.000 năm trước tại khu vực Lưỡng Hà, (Syria, Thổ Nhĩ Kỳ, Irag, Iran ngày nay) với mục đích khai thác khoáng sản vàng trên trái đất. Khoảng 250.000 năm trước, theo các tài liệu phục hồi được, các thợ khai thác mỏ đã nổi loạn chống lại điều kiện tồi tệ tại các khu khai thác. Hội đồng Anunnaki cấp cao đã quyết định tạo ra một sinh vật mới để làm nô lệ khai thác cho họ. Enki người đứng đầu về mặt khoa học và Ninhursag chủ nhiệm hội đồng sinh học đã lai tạo gien của Anunnaki và động vật Erectus Homo (người vượn cổ) để tạo ra loài người. Bởi vì là loài động vật lai, nên loài người ban đầu không có khả năng sinh sản. Nhưng do nhu cầu cần nô lệ nhiều hơn,Anunnaki đã biến đổi di truyền để loài người có thể duy trì và phát triển nòi giống.



Người ta cho rằng quá trình tiến hóa của loài người có sự can thiệp của Anunnaki
Một thời gian sau, con người đã tiến hóa vượt bậc, một số thoát khỏi các trung tâm thành phố Anunnakivà sinh sống khắp nơi trên thế giới. Sự phát triển của loài người vượt tầm kiểm soát của Anunnaki. Chuyện này là không thể chấp nhận được đối với Hội đồng cấp cao Anunnaki. Họ đã thông qua chỉ thị tạo ra một số thiên tai như lũ lụt hòng quét sạch dân số giống loài mà họ đã dựng lên vào khoảng thời gian 12.500 trước đây. Một số Anunnaki được cứu sống bởi nhân vật quyền lực như Enki, người đã có công trong việc tạo ra di truyền ở loài người. Hàng nghìn năm tiếp theo trôi qua, con người được cácAnunnaki sử dụng như là nô lệ, công nhân và binh sĩ chiến đấu cho những mâu thuẫn chính trị trong nội bộ các Anunnaki. Con người cũng chính là những nô lệ dựng lên các đền đài, cung điện, trạm thiên văn trên các châu lục từ Ai Cập, Ấn Độ đến Trung Mỹ theo yêu cầu của của họ.



Phù điêu cổ của người Sumer mô tả các Anunnaki

Khoảng 6000 năm trước, con người bắt đầu có nền văn minh của riêng mình và cũng đã đến lúc họ phải trở về hành tinh của mình theo đúng chu kỳ 3.600 năm của hành tinh Nibiru. Summer, nền văn minh Lưỡng Hà ra đời dưới sự giám sát của các Anunnaki. Các vì Vua là những người ưu tú được họ chọn lựa và trao quyền để thực thi các sứ mệnh của Anunnaki. Đây cũng là một chủng người mang những gien vượt trội của họ. Những vì vua và dòng dõi được họ huấn luyện với nền giáo dục tiên tiến về công nghệ, toán học, thiên văn … Và con người bắt đầu một cuộc sống độc lập của riêng mình.

Bằng chứng gì hỗ trợ giả thuyết của Sitchin?


Bằng chứng thiên văn





Hình minh họa sự kiên hành tinh
Nibiru va chạm với Tiamat,
tạo ra trái đất

Nền tảng giả thuyết của tác giả Zecharia Sitchin chính là hành tinh Nabuki, vậy có hay không sự tồn tại của hành tinh thứ 10 trong Thái Dương Hệ?, quê nhà của Anunnaki, về kích thước, tính chất đặc điểm như Sitchin đã mô tả?

Ngược dòng lịch sử, Tombaugh phát hiện ra Diêm vương tinh vào năm 1930. Christie, thuộc Đài quan sát Hải quân Mỹ phát hiện ra Charon, vệ tinh của Diêm vương tinh vào năm 1978. Các đặc tính tác động của Diêm vương tinh lên quỷ đạo mặt trăng Charon chứng minh vẫn phải còn một hành tinh lớn nữa chưa được khám phá. Diêm vương tinh không thể là tác giả của các nguyên nhân gây ra các dao động, “sự lắc lư’ được xác nhận rõ ràng của quỷ đạo Thiên vương tinh và Hải vương tinh . Các IRAS – vệ tinh thiên văn hồng ngoại thực hiện quan sát để tìm hành tinh thứ 10 một cách ráo riết vào những năm 83-84, như một nhà thiên văn tham gia dự án cho biết “tất cả còn phải làm là nên chuẩn bị tìm một cái tên đặt cho nó“. Năm 1992, Harrington và Van Flandern của Đài quan sát Hải quân cho biết với những thông tin họ có trong tay, hành tinh thứ 10 có tồn tại, thậm chí họ còn gọi nó là “kẻ xâm nhập”. Sau khi đọc bản dịch Enûma Eliš , một bản văn tự cổ của nền văn minh Sumer, được tìm thấy tại vùng Lưỡng Hà, Harringtonđã mời Sitchin, đến tham gia một cuộc họp tại văn phòng của mình để so sánh kết quả quan sát có được hiện tại và các ghi chép thiên văn học của văn tự cổ xưa. Bản văn tự cổ Enûma Eliš được phục hồi cũng cung cấp nhiều thông tin về hệ mặt trời của chúng ta. Tại thời điểm Thủy tinh, Kim tinh, Hỏa tinh, Mộc tinh, Thiên vương tinh và Thổ tinh nằm trên quỷ đạo, còn có một hành tinh khác có kích thước bằng Thiên vương tinh nằm giữa quỷ đạo Mộc tinh và Thổ tinh có tên là Tiamat. Lúc này Trái đất chưa nằm trong Hệ mặt trời. Nibiru lúc này là một hành tinh lớn “lang thang” bị hút vào quỹ đạo của Thái Dương Hệ. Do đến từ ngoài hệ mặt trời, nó gây ra các xáo trộn ảnh hưởng đến các quỹ đạo các vệ tinh của các hành tinh hiện có. Trục Thiên vương tinh bị nghiêng sang một bên. Diêm vương tinh bị trôi dạt ra khỏi quỷ đạo của Thổ tinh và xoay quanh quỷ đạo mới của riêng mình. Lực hút cũng bẻ cong đường đi của Nibirugây ra các va chạm. Đầu tiên vệ tinh của nó va chạm với hành tinh lớn Tiamat, và sau đó chính nó cũng chạm vào hành tinh này, mảnh vở lớn nhất của nó hình thành nên trái đất ngày nay, và vệ tinh của kẻ xâm nhập cũng trở thành mặt trăng của hành tinh chúng ta. Những mảnh vụn nhỏ lớn tạo thành các vành đai tiểu hành tinh (asteroid belt) và thiên thạch, sao chổi lang thang trong hệ mặt trời. Vành đai Thái Bình Bình Dương được cho là cái sẹo còn lại sau sự kiện va chạm này. Như vậy Nibiru chính thức gia nhập vào hàng ngũ các hành tinh anh em xoay quanh mặt trời, và chu kỳ quỷ đạo của nó là 3.600 năm so với trái đất chỉ có 365 ngày (chính xác là 365,2564) . Tuy nhiên chiều quỹ đạo của nó ngược lại với tất cả các hành tinh khác, đi qua vùng vành đai các tiểu hành tinh nằm giữa Hỏa tinh và Mộc tinh tại điểm gần nhất (so với mặt trời) và điểm xa nhất của Diêm vương tinh.




Mặt Trời · Sao Thủy · Sao Kim · Trái Đất · Sao Hỏa · Ceres · Sao Mộc · Sao Thổ · Sao Thiên Vương · Sao Hải Vương · Sao Diêm Vương · Haumea · Makemake · Eris (Từ trái sang phải)


Về cơ bản những thông tin mà Harrington có được trùng khớp với những gì chỉ ra trong bản văn tự cổ. Vị trí của hành tinh X (Nibiru) theo quan điểm của hai ông là thống nhất.

Bằng chứng công nghệ


Oopart là thuật ngữ dùng để mô tả các hiện vật, đồ chơi, dụng cụ, thiết bị kỹ thuật và tài liệu có tính năng vượt bậc so với niên đại của chúng được tìm thấy qua khai quật. Thí dụ, một chiếc bình cổ có công dụng như hoạt động của pin vào thời cổ đại được tìm thấy tại sa mạc Irag có niên đại 2500 năm trước Công nguyên (Xem thêm tại đây), Các mô hình máy bay, phi thuyền, máy bay trực thăng …trong lăng mộ cổ Ai Cập (Xem thêm tại đây), những tảng đá khối nặng 1000 tấn được cắt chính xác để xây dựng các Kim Tự Tháp vẫn là một câu hỏi lớn đối với các nhà khoa học và khảo cổ ngày nay. Đỉnh nhất về oopart là phát hiện gần đây nhất của David Hudson, đó là “monoatomic gold“(một chất siêu dẫn ở nhiệt độ trong phòng, có đặc tính kháng trọng lực và hiện đang được nghiên cứu bởi hội đồng vật lý cấp cao). Phát hiện của Hudson có vẻ như trùng khớp với lập luận của Sitchin trước đó, ông cho rằng người Anunnaki đến hành tinh chúng ta để khai thác vàng và sử dụng nó để cứu hành tinh Nibiru của họ. Điều này cũng giúp Gardner làm sáng tỏ những bí ẩn về các nhà máy chế biến vàng của người Anunnaki trên đỉnh núi Horeb, được phát hiện bởi Sir Flinders Petrie năm 1889, cho thấy ”monoatomic gold” đã được biết trước đó ít nhất 3000 năm. Ngoài ra oopart từ nhiều ngành cùng với các tài liệu ghi chép khác nhau cũng cho thấy có một nền văn minh tiên tiến đã từng tồn tại tại một vài thời điểm, họ sở hữu một trình độ công nghệ cao, và đó chỉ có thể là nền văn minh Anunnaki.




Bức tượng phi thuyền được Sitchin vẽ lại (thêm phần đầu bị mất) từ nguyên gốc



Hình tàu bay, phi thuyền, trực thăng được tìm thấy trong lăng mộ Ai Cập



Các bức tượng cổ của người Maya, có hình dáng như các phi hành gia ngày nay

Bằng chứng tài liệu


Các tài liệu lịch sử ghi nhận sự tồn tại và hoạt động của các Anunnaki chỉ mới bắt đầu được khám phá vào đầu những năm 1800.



Bản đất sét, thông tin lưu giữ của người Sumer
Khai quật các địa điểm khảo cổ tại vùng Lưỡng Hà, người ta đã phát hiện nền văn minh tiên tiến Sumer đáng kinh ngạc, vượt xa những hiểu biết của con người về thời cổ đại, có hàng ngàn bảng đất sét ghi lại không chỉ ghi lại các hoạt động buôn bán, kết hôn, quân sự mà còn có những ghi chép tính toán về khoa học thiên văn tiến tiến của cácAnunnaki. Rõ ràng những người Sumer biết rằng những người đến ngoài hành tinh là những sinh vật bằng da bằng thịt. Một trong những phát hiện cực kỳ ấn tượng gần đây nhất đó là một căn phòng có kích thước 1.8 x 2.7 mét, được niêm phong tại Sippar, bên trong có một bộ 400 viên đất sét được xếp gọn gàng trên kệ, chứa đầy đủ thông tin về lịch sử người cổ đại theo trình tự thời gian. Các bằng chứng áp đảo và mạnh mẽ, nếu không ai có những phản biện tốt hơn, nó sẽ được chấp nhận như một thực tế, các quan điểm về thời cổ đại hoàn toàn khác những gì chúng ta đã biết.

Bằng chứng di truyền


Những tài liệu phục hồi cho thấy vị trí các phòng phòng thí nghiệm của Anunnaki được đạt ngay tại các vị trí các mỏ vàng tại phía đông Trung Phi.


Tượng vua Anu

Địa điểm này rơi đúng ngay vào tâm điểm, nơi tìm kiếm xuất phát các ti thể DNA đầu tiên của “Eva”, tức loài Homo Sapiens (vượn người tiến hóa) vào cùng thời gian (Các kỹ sư khai thác mỏ vàng ở châu Phi tìm thấy mỏ vàng có niên đại 100.000 năm tuổi tại đây). Các bằng chứng và mô tả của kỹ thuật gien tiên tiến đều nằm trong các tài liệu cổ. Sự tiến hóa của loài người chỉ trong vòng 250.000 năm, nhanh vượt bậc so với các loài khác trên trái đất mất hàng triệu năm như loài Homo Erectus (một nhóm giống loài trong họ Người đã từng tồn tại khoảng 1,8-3 triệu năm TCN, được Eugène Dubois phát hiện ra trên đảo Java năm 1891.) trước chúng ta. Như một số nhà tư tưởng chỉ ra, chúng ta hoàn toàn dị thường và khác biệt so với các động vật khác trên trái đất. Đương nhiên rất nhiều nhà khoa học đã phản bác các luận điểm của Zecharia Sitchin và những người ủng hộ ông. Tuy nhiên tất cả những tranh cãi vẫn không đưa ra được những bằng chứng phản biện hoàn toàn thuyết phục. Điều đó chúng ta sẽ cùng xem xét trong một bài viết khác.

Một số bài viết liên quan đến những phát minh vượt bậc của con người cổ đại:

Những di vật bí ẩn nhất hành tinh chưa có lời giải đáp (p1)
Những di vật bí ẩn nhất hành tinh chưa có lời giải đáp (p2)
Có phải người Ai Cập cổ xưa đã phát minh ra bóng đèn điện?
Những địa danh huyền bí nhất hành tinh

Bạn có thể tìm hiểu thêm về Anunnaki và lịch sử của họ qua video phỏng vấn Micheal Tellinger, người thường được nhắc đến như là một chuyên gia nghiên cứu về Annuaki


Các clip về thuyết Anunnuaki


Tác giả: Chung Huynh L

Nguồn http://www.cong1.com

VIMANA thời xưa và UFO thời nay



Vimāna có nghĩa là Thiên Cung. Tháp là một loại thiên cung thông thường nhất.




Cấu trúc chi tiết của một Tháp

Trong các văn bản kinh cổ, thiên cung (vimana) còn có nghĩa là một "cỗ xe",thậm chí một "cỗ xe bay"


Thiên Cung cỗ xe



Thiên Cung Voi



Tranh diễn tả một loại Thiên Cung trên cây



Tranh diển tả một loại Thiên Cung Bay



Tranh tôn giáo diển tả một Thiên Cung (trên trời)



Tranh diễn tả một loại Thiên Cung Bay



Tranh diễn tả các thiên cung bay trong một trận chiến giữa các chư thiên



Các tranh xưa khoảng vài thế kỷ trở lại đây cũng cho thấy hình ảnh của Vimana



Bức tranh cổ trong nhà thờ Thiên Chúa Giáo có hình ảnh về các vật thể bay

(This is the painting titled “The Madonna with Saint Giovannino” a painting from around the 15th century most likely painted by Domenico Ghirlandaio.)




Bức tranh diễn tả Đức mẹ Maria đang nhìn xuống. Ở hậu cảnh có thể nhìn thấy một vật thể trên trời giống như một UFO đang bay, trong khi bên dưới có một người lấy tay che nắng để theo dõi vật thể bay kỳ lạ đó!



The Crucifixion’ – painted in 1350

(Bức tranh treo tại Visoki Decani Monestary in Kosovo, Yugoslavia.)



Hình hai bên góc trên phải và trái của bức “The Crucifixtion” được giải thích là mặt trăng và mặt trời, nhưng trông giống như một vật thể bay có người ngồi bên trong


Hình phóng đại chi tiết hơn




Dưới đây là hình ảnh các vật thể bay không xác định, hiện đang là đề tài tranh cãi hiện nay:



UFO



UFO



UFO



UFO



UFO



Có thể là một dạng UFO lạ



UFO



UFO



UFO



Hình ảnh thực của nhiều loại UFO khác nhau đã nhìn thấy được

———————

***



--

Tìm hiểu khái niệm về Thiên Cung (Vimāna)


I. Thiên Cung theo từ điển Pāli-Anh của Rys David


Vimāna (danh từ trung tính), nghĩa Pāli là cung điện hoặc cỗ xe do ngựa hoặc súc vật kéo giống như trong Mahabharata và các Sử thi khác tiếng Sanskrit. Nghĩa đen bao hàm một không gian nào đó, sự đo lường. Định nghĩa của chú giải sư Dhammapala ám chỉ đến sự không thể đo lường được. Vimana cũng có nghĩa là cung điện vua chúa, vĩ đại và đáng kính ngưỡng. Chú giải Chuyện Thiên Cung trang 160, Vimāna được dùng với nghĩa là cung điện thần bí, một loại thiên đường (paradise, elysium),
Vimana = Cung điện

Tổng quát


a) Vimana là khái niệm lạ thường, xuất hiện rất muộn trong các phần lạ thường về sau của kinh tạng, dựa trên mê tin của quần chúng (các chuyện Thiên Cung, Ngạ Quỷ, Thánh Nhân ký sự, Tiền Thân Đức Phật và các chuyện thần tiên tương tự). Nó cho thấy dấu vết rõ ràng từ ảnh hưởng của các nền văn minh Hellenic, Babylonian và chúng cũng dựa vào các chuyện kể của các thương lái đường biển. Ngoài ra vimāna còn biểu hiện cho cỗ xe kéo mà kinh Veda gọi là Ratha tức cổ xe của chư thiên vận hành bằng ý chí.
Cỗ xe của cõi trời

b) Vimāna ở chỗ xa xôi của thế giới (trong kinh gọi là các đảo của những người được hưởng phước báu) tương tự như thiên đàng trong Homer’s Odyssey. G Chapman dịch :”vùng đất bất tử ở tận cùng thế giới, cực lạc sống theo luật của thần Rhaamanthuc. Nơi mà con người sống suốt đời thảnh thơi, nơi mùa đông không chút khó chịu, không có tuyết và mưa rào, chỉ có làn gió ấm thoảng đầy tràn hương thơm.”

c) Trong các tôn giáo phổ thông, văn học “nói về thế giới bên kia” luôn có tác động mạnh mẽ. Điều đó khiến Chuyện Thiên Cung, Ngạ Quỷ, Tiền Thân Đức Phật trở thành các ví dụ cho thuyết quả báo và là các ví dụ thần bí sinh động khiến một trí óc bình thường sẽ cảm thấy hấp dẫn hơn bất cứ cuốn kinh nào. Từ quan điểm này, ta phải sử dụng phán đoán mỗi khi đọc.

Sự mô tả các Vimāna thể hiện bằng các từ ngữ phức tạp. Những cung điện (vương quốc nhỏ) được làm bằng vàng, pha lê hay ngọc báu. Các cột có đỉnh bằng đá quí, mái lợp sáng chói có chóp bằng 700 hoặc 1800 đỉnh nhọn hoặc không đếm xuể. Xung quanh các tòa nhà cao là các khu vườn đẹp đẽ, lối đi lấp lánh với bụi vàng, đầy những cây “cho điều ước” thỏa mãn mọi ham muốn. Có nhiều loại cây trong vương quốc chĩu nặng hoa trái, đong đưa nhẹ nhàng trong gió. Hồ sen có nước mát để tắm. Tiếng hót của chim chóc hòa với tiếng chập chỏa và tiếng sáo của các thần âm nhạc. Các trinh nữ thiên thần biểu diễn múa, ánh sáng từ cơ thể tiên nữ phát sáng tràn đầy không gian. An bình và hạnh phúc khắp nơi, vui thú của cung điện như thế không thể diễn đạt bằng lời. Thiên đàng này kéo dài nhiều kiếp và dễ hình dung nhất.

Cư dân của các thiên cung luôn là những người hạnh phúc, gọi là chư thiên, tức những người đạt đến trạng thái cao đẹp nhờ phước báu. Trong Chuyện Thiên Cung 172, có những chư thiên trước đây là a tu la được gọi là pubbadevata, tức những linh hồn đi qua trạng thái ngạ quỷ trước khi thành chư thiên. Chuyện nửa trừng phạt, nửa hưởng thụ, được nhấn mạnh dựa trên tính cách của từng nghiệp riêng. Những chư thiên “hỗn hợp”, tức nửa được hưởng phước nửa bị ác báo, được biểu hiện qua những từ như “thiên cung ngạ quỷ” (vimānapeta). Chư thiên xuất hiện với vẻ ngoài như những người đẹp đẻ, mặc áo bằng vàng hay bạc. Mức rực sáng của chư thiên được ví như ánh trăng hay ngôi sao buổi sáng.

Nguồn gốc của Thiên Cung: Một thiên Cung xuất hiện trong thế giới khác ngay khoảnh khắc một người làm việc thiện (hoặc qua suốt cuộc đời của một người) và chờ đợi chủ nhân của nó bước vào. Khi mô tả thiên cung của Long Vương, thiên cung được cho là không có nguyên nhân do thời tiết hay tự thân, cũng không phải nó tự xuất hiện hay do các chư thiên ban tặng. Một người có được thiên cung là do tâm trong sạch và do việc làm phước báu. Lúc bước vào thiên đàng của thiên cung tương tự như lúc từ trạng thái hấp hối chuyển qua trạng thái hoan lạc thần tiên, và có thể sánh với việc thức tỉnh sau giấc ngủ hay sau một cơn ngất.

Nơi chốn của các thiên cung: Thiên cung chính là trạng thái thiên đàng của từng cá nhân. Bởi vậy, thiên cung không thể được xác định ở một nơi chốn xác định. Chúng có thể ở bất cứ nơi đâu (trong thế giới này hay ngoài thế giới này). Nhưng có một vài nơi mà thiên cung thường được thiết lập nhiều hơn các chỗ khác. Thiên cung được thấy nhiều ở nơi gần nước, như đại dương và các hồ lớn, nơi không có đường đi, tận cùng thế giới, nơi hoang dã. Và thiên cung rất thường được xây dựng giữa không trung. Thiên cung có thể di chuyển tức khắc bằng ý chí, đến bất cứ nơi nào, tùy theo năng lực đặc biệt của chủ nhân của nó. Khả năng dị chuyển này được phối hợp với năng lực chuyển động cực nhanh (có thể so với tốc độ của tâm – mano java). Một chiếc kiệu vàng lơ lửng giữa không trung được ghi trong chú giải Chuyện Thiên Cung. Nhưng cung điện của Dạ Xoa Alavaka thì ở trên mặt đất và được gia cố vững chắc. Loại thiên cung bay có thể được mô tả như là chiếc nghế, con voi, chiếc tàu, cái giường, cái võng. Thiên cung có thể ở một thế giới khác như khu vườn của Indra hay cái cây trong vườn của Indra, hay trong thế giới của các chư thiên nhạc sĩ. Sau nữa, cùng với giáo lý về phước báu, các linh hồn được sanh lên cảnh giới chư thiên đặc biệt tốt đẹp, thiên cung và nơi trú của họ là tầng trời Ba Mươi Ba Tāvatiŋsa hay ở trời Đâu Suất Tusita. Thiên cung Đâu suất có thể dùng thay cho thành phố Đâu Xuất Tusita pura

Kích thước của thiên cung có thể nhỏ hoặc là cực lớn, nhưng nói chung có cấu trúc hài hòa về mọi hướng, hoặc theo một hằng số tỉ lệ nhất định. Con số tần suất lớn nhất là 12, 16, 30, 700 liên hệ với yojana (đơn vị đo chiều dài theo Vệ Đà). Con số 12 và 16 được sử dụng trong chiều dài, chiều rộng, chiều cao, chu vi, trong khi con số 700 luôn chỉ áp dụng cho chiều cao và số các tháp nhỏ (turrets)

Thiên Cung của mặt trời và mặt trăng: Một ý tưởng kỳ dị (của thời sau) là ở mặt trời và mặt trăng cũng có những thiên cung. Chỉ có vài hàng trong các sách hậu kinh điển đề cập đến điều này. Ý tưởng các thiên thể là những thiên cung (các cỗ xe vĩ đại, hình bán cầu mở, thực ra là của Đạo Jain)

Các danh từ khác cùng nghĩa với Vimāna và các hình thái đặc biệt khác: Có nhiều cách diễn đạt khác để chỉ chung cho Vimāna, như Ratha, Nagara, Pura, Pāsāda, Dibba, Vara. Thiên Cung (Vimāna) được phân loại thành “thiên cung của chư thiên” hoặc tuyệt hảo hơn nữa là “thiên cung của Phạm Thiên”, đó là nơi chốn thần bí nhất, thiên đường cao siêu nhất. Còn gọi là cung điện của Phạm Thiên, trú xứ của Phạm thiên, hay vắn tắt chỉ gọi là Phạm thiên (Brahmā). Cao hơn tất cả, gọi theo triết gia La Mã là thiên đàng của sự thiện tột cùng (summum bonum). [1]

Ngoài các kinh Chuyện Tiền Thân Đức Phật, Chuyện Thiên Cung thuộc Tiểu Bộ, Sử liệu xá Lợi Răng Phật (Datha-vansa) viết bằng tiếng Pali vào khoảng năm 1200,. Trong bốn bộ kinh Nikaya còn lại chỉ có thấy chữ Vimāna trong kinh Tăng Chi và kinh Trường Bộ. [2]

II. Thiên Cung (Vimāna) theo tập kinh Vimānavatthupāli)


Vimānavatthupāli

Là một tập kinh của Tiểu Bộ, được dịch là Chuyện Thiên Cung

Gồm có bảy phẩm (vagga) được sắp xếp thành hai phần theo giới tính: Itthivimānaṃ – Thiên Cung Nữ Giới gồm 4 phẩm đầu và Purisa-vimānaṃ – Thiên Cung Nam Giới gồm 3 phẩm còn lại. Các phẩm được liệt kê chi tiết như sau:

1. Pīṭhavaggo – Phẩm Chiếc Ghế có 17 câu chuyện (vatthu),

2. Cittalatāvaggo – Phẩm Cittalatā có 11 câu chuyện,

3. Pāricchattakavaggo – Phẩm Pāricchattaka có 10 câu chuyện,

4. Mañjeṭṭhakavaggo – Phẩm Mañjeṭṭhaka có 12 câu chuyện,

5. Mahārathavaggo – Phẩm Cỗ Xe Lớn có 14 câu chuyện,

6. Pāyāsivaggo – Phẩm Pāyāsi có 10 câu chuyện,

7. Sunikkhittavaggo – Phẩm Khéo Đặt Xuống có 11 câu chuyện.

Tổng cộng có 85 câu chuyện liên quan đến 123 Thiên cung. Sở dĩ như thế bởi vì một số câu chuyện đề cập nhiều hơn một Thiên cung, cụ thể là: Guttilavimānaṃ – Thiên Cung của Guttila (3. 5) đề cập đến 36 Thiên cung và Caturitthivimānaṃ- Thiên Cung của Bốn Phụ Nữ (4. 7) đề cập đến 4 Thiên cung. Số lượng các kệ ngôn ở văn bản Pali-Sinhala được ghi nhận là 1291, trong khi đó Chú Giải xác định là 1500 kệ ngôn (VvA., 4).

Qua văn bản Vimānavatthupāḷi – Chuyện Thiên Cung, khái niệm về từ vimāna đã được mô tả chi tiết. Vimāna không chỉ đơn độc một gian nhà hay một tòa lâu đài mà còn bao gồm nhiều công trình xây dựng về nhà cửa, vườn hoa, rừng cây, hồ nước, và còn có cả các loài thú nuôi như ngựa, voi cùng với các cầm thú thiên nhiên như thiên nga, ngỗng đỏ, v.v… Ngoài ra cũng có câu chuyện mô tả vimāna chỉ là một chiếc ghế hay một chiếc thuyền, hay một cỗ xe xinh đẹp có khả năng du hành trong không trung.

Về nội dung, Vimānavatthupāḷi – Chuyện Thiên Cung có chủ đề là nghiệp thiện và quả thành tựu của các nghiệp thiện ấy. Các nghiệp thiện được đề cập ở đây chủ yếu không ngoài Thập Thiện Nghiệp gồm có bố thí, trì giới, v.v… Nội dung của các câu chuyện được trình bày một cách sinh động thông qua hình thức vấn đáp. Nhân vật đưa ra các câu hỏi này đã được xác định ở Chánh Tạng, đa phần là của ngài Moggallāna, một số khác do đích thân đức Thế Tôn hỏi, một số khác do trưởng lão Vaṅgīsa và Thiên Chủ Sakka. Các câu trả lời là do chính các vị Thiên nhân cai quản các Thiên cung đã nói lên.

Đặc biệt, ở câu chuyện Thiên Cung của Người Nữ Bố Thí Bọt Nước Cơm, Chúa Trời Sakka đã không hỏi trực tiếp vị Thiên nhân mà đã hỏi trưởng lão Mahākassapa để tìm hiểu về cảnh giới tái sanh của người đàn bà nghèo khổ đã bố thí bọt nước cơm đến ngài (2. 3). Ở một số câu chuyện, còn có các kệ ngôn của các vị Trưởng Lão đã tham gia cuộc kết tập thêm vào để giải thích hoặc kết luận sự việc

Cũng cần nói thêm là ở những câu chuyện không ghi rõ tác giả của câu hỏi thì Chú Giải đã bổ sung điều này: Đức Phật (2. 5), trưởng lão Vaṅgīsa (1. 16, 4. 3), trưởng lão Nārada (3. 8), trưởng lão Anuruddha (4. 6), trưởng lão Mahākaccāna (5. 13). Ở phần kết thúc của mỗi câu chuyện, Chú Giải còn cho biết rằng sự việc đã được trình lên đức Phật, và Ngài đã dùng chính nội dung câu chuyện ấy làm đề tài để giáo huấn.[3]

Sự giao tiếp của loài người địa cầu và người từ các các cõi thiên


Tập kinh Vimanavatthupali cho thấy có sự giao tiếp cụ thể và trực tiếp của các cư dân đến từ các cõi trời khác với con người trên địa cầu với. Theo chuyện Thiên Cung, sự giao tiếp này được mô tả giữa Đức Phật các trưởng lão. Các thiên nhân trong Vimanavatthupali đến từ cõi trời Ba Mươi Ba (tam thập tam thiên - Tāvatiṃsa) mà vị vua cai quản là Sakka, còn có tên gọi là Vāsava [4]

Ngoài các trường hợp kể về các thiên cung cố định thấy giữa không trung, trên mặt nước hay trên mặt đất. Tập kinh còn cho thấy các thiên nhân, ở một số các cõi trời, di chuyển từ nơi này đến nơi kia trong vũ trụ, không phải bằng thần thông của tự thân, mà bằng các “thiên cung bay”, vận hành bằng ý chí với tốc độ của tâm.

III. Vimāna trong văn học Sanskrit


Vimāna Sanskrit विमान là một từ với nhiều nghĩa khác biệt từ nghĩa “ngôi đền,cung điện” cho đến “các loại máy bay trong huyền thoại” được mô tả trong các bộ sử thi Ấn Độ bằng tiếng Sanskrit.

Vi-mānacó nghĩa đen là “đo lường, đi ngang qua” hay “được đo lường

Cung điện của một vị vua hay một đế chế tối thượng

Nơi thờ phượng trong đền thờ Rama hay các đền khác.

Một ngôi đền, thánh địa có hình dạng đặc biệt

Những gì có nghĩa là cung điện của thần thánh

Những gì có nghĩa là Pushpaka hay Dandumonara, máy bay (cung điện bay) của vua Ravana của Lanka

Những gì thuộc về cỗ xe của các vị thần, những loại xe tự vận hành bay trong không trung (đôi khi là một ngai cố định để ngồi, đôi khi có thể tự vận hành mang theo người ngồi bay lên không trung, đôi khi Vimana được mô tả giống như một căn nhà hay cung điện và có một loại được cho là cao bảy tầng)

Những gì thuộc về bánh xe hay phương tiện vận chuyển ( như xe để đẩy – bier)

Trong Y học, Vimana ám chỉ ngành khoa học về đo đạc đúng hay tỉ lệ đúng về thể dịch của cơ thể, của thuốc và liệu pháp v.v…

Trong ngôn ngữ Ấn Độ hiện đại, vimānahayvimāncó nghĩa là máy bay. Ví dụ, địa danh Vimanapura, ngoại ô của Bangalore, gần sân bay và có nghĩa là “thành phố máy bay”[5]

Vimāna theo các Sử thi Ấn Độ


Một đoạn trong trường thi Ramayana [6.121.9-11]đã được dịch sang tiếng Anh [6]. Vua Vibhishana của xứ Lanka nói với Rama:

- Ôi ngài Rama với quyền năng vô đối! Cỗ xe di chuyển trên trời, chiếu sáng như mặt trời, di chuyển như ý muốn, thật tuyệt vời, có tên gọi là Pushpaka của Kubera [7], người huynh đệ của ta, từng bị Ravana mạnh mẽ chiếm đoạt sau trận chiến khuất phục Kubera. Chúc ngài sự thịnh vượng! Nó vẫn ở sẵn đây để tùy ngài sử dụng. Cổ xe di chuyển trên trời này, nhìn giống một đám mây, đậu sẵn nơi đây và nó sẽ đưa ngài đến Ayodha chẳng khó khăn gì.”

Ghi nhận trong đoạn kinh Sanskrit này: “Cổ xe di chuyển trên trời, chiếu sáng như mặt trời, di chuyển như ý muốn” cũng có mô tả giống hệt như các “thiên cung bay” trong chuyện Thiên Cung của văn học Pāli.

Mô tả về Thiên Cung Pushpak (Pushpak Vimāna)

Pushpak ban đầu nhằm thiết kế cho Kubera (thần của giàu có) nhưng sau đó bị người anh khác mẹ Ravanan cướp đoạt cùng với thành phổ đảo của xứ Lanka. Có rất nhiều đoạn văn trong sử thi Ramayana nói về chất lượng tuyệt hảo của phương tiện bay này. Cùng thử xem ba đoạn trích sau đây để thấy Pushpak được mô tả chẳng khác một phi thuyền không gian lớn:

1) Cỗ xe đó được trang hoàng bằng vàng, càng xe cột với các con la có mặt quái dị, phủ bởi các nút bằng đá quý có thể điều khiển theo ước muốn của người điều khiển. Ngồi trong cỗ xe như thế này, cái mà tất cả đều bằng vàng, khi du hành với một âm thanh của sấm sét để chúc mừng cùng Ravana người anh em của Kubera, cùng với chúa tể của quỷ, du hành hướng về chúa tể của các sông, các suối, đại dương [8].

(Chú ý cách mô tả khi Pushka khởi động để du hành thì kèm theo âm thanh sấm sét như để chào mừng! Mô tả này rất giống như âm thanh của phi thuyền của con người khi khởi động!)

2) Khi nghe vua khỉ Sugreeva cùng với bầy khỉ vui sướng trèo lên xe bay Pushka tuyệt vời đó. Vibhishan cùng với đoàn tùy tùng đã cùng bước lên xe [9]

3) Khi tất cả họ đều đã bước lên, chiếc xe bay tuyệt hảo đó của Kubera, đã bay vào bầu trời sau khi được lệnh truyền thích hợp của Rama.[10]

Pushpaka, được gọi là Dandu Monara trong tiếng Sinhala: (දඩුමොණරය), có nghĩa là con công bay hay con công gỗ, một vật thể bay chế tạo bởi vua Ravana. Ấn Độ giáo tin rằng vua Rabana đã dùng Pushpaka để bắt cóc hoàng hậu Sita của Rama. Theo sử thi Ramayana, Pushpaka hạ cánh tại sân bay Werangatota, khoảng 10 km cách Mahivangana. vùng đồi núi Nuwara Eliya thuộc miền trung Sri Lanka [11]

Hình ảnh của Pushpak theo Pahari miniature painting


Hình ảnh của Pushpak theo Pahari miniature painting [12]

Có đến hàng trăm “thiên cung bay” được ghi chép trong Rig Veda và các sử thi Ấn Độ. Hầu hết những tài liệu này chưa được dịch sang tiếng Anh từ văn bản tiếng Phạn cổ. Ngoài ra còn có rất nhiều tranh ảnh tôn giáo tại Ấn Độ mô tả về các loại “thiên cung bay” (xem trang tài liệu hình ảnh 02 [13])
Hình vẽ về Thiên Cung bay trong sách cổ của Ấn Độ


Một tương hợp lạ lùng là ngay trong tranh ảnh của các tôn giáo Abrahamic, như tranh tại các nhà thờ Thiên Chúa Giáo, cũng có mô tả các vật thể trên bầu trời giống như “thiên cung bay” và giống như UFO thời nay!
The Madona with saint Giovannino


Bên trên là một phần bức tranh “The Madonna with Saint Giovannino” vẽ bởi Domenico Ghirlandaio vào thế kỷ 15. Tranh diễn tả hình Đức mẹ Maria đang nhìn xuống, trong khi ở hậu cảnh là các hình ảnh giống như các vật thể bay không xác định (UFO) của ngày nay! và bên góc phải còn có một người, đang lấy tay che nắng, để quan sát các vật thể bay trên bầu trời!

Vaimānika Shāstra

Khoảng đầu thế kỷ 20,xuất hiện một bản “kinh” tên là Vaimānika Shāstra [14], được cho là của một tu sĩ Ấn Độ tên là Pandit Subbaraya Shastry, mô tả về sơ đồ và cách thiết kế Vimana. Văn bản này được G.R. Josyer khám phá vào năm 1952. Được dịch sang tiếng Hindi 1959 và tiếng Anh vào 1973. Tuy nhiên, viện nghiên cứu cơ khi và hàng không của Ấn Đô cho là các thiết kế bay trong tài liệu này được mô tả quá sơ sài và không phù hợp với sự hiểu biết về khoa học hàng không và không gian hiện đại
Vaimanika Shastra Shakuna illustration


IV. Giải thích về Thiên Cung bay


Khảo sát các ý nghĩa khác nhau của từ Vimāna (Thiên Cung), ta thấy từ này được dùng trong kinh điển với ý nghĩa chính là một nơi trú ngụ, nơi cư trú để sinh sống, an hưởng. Nơi cư trú có thẻ rất nhỏ như cái ghế, ngọn cây, con voi, chiếc thuyền, cỗ xe v.v… hoặc như một bảo tháp, cung điện lớn, hoặc lớn hơn nữa như một thiên thể, mặt trời, mặt trăng và trái đất!

Thiên Cung khi được mô tả như ngôi đền hay cung điện, một chỗ trú ngụ “cố định”, thì khái niệm này rất dễ được đa số người hiểu và chấp nhận. Nhưng khi Thiên Cung được kinh điển diễn tả như là các vật thể “bay”, được vận hành bằng ý chí, với tốc độ tâm, điều này đã làm một số người nghi hoặc. Lý do là trong kinh Phật, ta thấy Đức Phật và các A La Hán để tử đi đến các cõi thiên bằng thần thông, mà không cần dùng đến một vật thể bay nào cả. Ví dụ trong Hạ thứ bảy:

“Đức Phật ngự lên cung trời Tam Thập Tam Thiên, để an cư nhập hạ suốt 3 tháng trong mùa mưa, thuyết giảng Abhidhammapiṭaka (Tạng Vi Diệu Pháp) gồm có 7 bộ lớn: Bộ Dhammasaṅgaṇī, bộ Vibhaṅga, bộ Dhatukathā, bộ Puggalapaññatti, bộ Kathāvatthu, bộ Yamaka và bộ Paṭṭhāna để tế độ Phật Mẫu (kiếp hiện tại là một thiên nam Santussita hóa sinh ở cõi trời Đẩu Suất Đà Thiên), chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu, cùng vô số chư thiên, phạm thiên chứng đắc thành bậc Thánh thấp hoặc cao tùy theo ba-la-mật của họ.” [15]

Hoặc trong kinh Trường Bộ, Đức Phật nói đến các vị Tỳ khưu, có biến hóa thần thông, có thể di chuyển qua mọi chướng ngại, bay trên hư không, đi đến được các cõi Phạm Thiên

“4. Này Kevaddha, thế nào là biến hóa thần thông? Này Kevaddha, ở đời có Tỷ-kheo chứng được các thần thông: một thân hiện ra nhiều thân, nhiều thân hiện ra một thân; hiện hình, biến hình đi ngang qua vách, qua tường, qua núi, như đi ngang qua hư không; độn thổ trồi lên, ngang qua đất liền như ở trong nước, đi trên nước không chìm như đi trên đất liền; ngồi kiết- già đi trên hư không như con chim; với hai bàn tay chạm và rờ mặt trời và mặt trăng; những vật có đại oai thần lực, đại oai thần như vậy, có thể tự thân bay đến cõi Phạm thiên. Có người tín thành thấy Tỷ-kheo ấy chứng hiện các thần thông: một thân hiện ra nhiều thân, nhiều thân hiện ra một thân: hiện hình, biến hình đi ngang qua vách, qua tường, qua núi như đi ngang qua hư không; độn thổ trồi lên, ngang qua đất liền như ở trong nước, đi trên nước không chìm như đi trên đất liền; ngồi kiết-già đi trên hư không như con chim, với bàn tay chạm và rờ mặt trời và mặt trăng; những vật có đại oai thần lực, đại oai thần như vậy, có thể tự thân bay đến cõi Phạm thiên.” [16]

Như vậy, việc chư thiên không tự thân di chuyển mà phải di chuyển bằng các loại “Thiên Cung Bay” như mô tả trong Chuyện Thiên Cung của văn học Pāli hoặc trong văn học Sanskrit quả là rất lạ và rất khó hiểu!

Thử giải thích:

- Do khái niệm “chư thiên” đôi khi bị hiểu lầm là các vị ở cõi cao hơn cõi người, tất cả đều có năng lực thần thông. Thực ra, trừ các vị Phạm Thiên cõi Sắc, chư thiên cõi Dục có năng lực giới hạn! Vì thế chư thiên cõi dục có thể không đủ thần thông để đi xa mà phải cần đến các phương tiện bay như Chuyện Thiên Cung đã đề cập đến. Thứ hai, theo kinh điển, loài người ở Nam Thiên Bộ Châu (trái đất) và cũng có những người ở các châu khác như Bắc Cu lô Châu, Đông Thắng Thần Châu và Tây Ngưu Hóa Châu. Nếu những người ở châu khác muốn đến trái đất, ắt cũng phải sử dụng một loại phương tiện bay nào đó! Vì theo kinh điển, họ cũng chỉ là loài người. Vậy “thiên cung bay” (flying vimāna) có thể được hiểu như là một phương tiện di chuyển của loài người ở châu khác, hoặc của chư thiên cõi dục

- Với cách hiểu như vậy, khi đọc các mô tả về thiên cung bay từ các văn bản Pāli hay Sanskrit, người đọc phải hình dung đó là một cỗ máy, một máy bay hay một tàu không gian, được tạo ra từ một nền văn minh rất cao, ở những thế giới khác với trái đất này! Cách hiểu này thực ra đôi khi không dễ dàng đối với một số người ! Nhưng phải biết, sự tồn tại các cõi giới khác nhau đã được Đạo Phật cũng như các tôn giáo Ấn Độ đề cập đến từ rất lâu trong quá khứ.

VI. Sự khác biệt về vũ trụ quan


Hiện nay, còn rất nhiều người tin rằng trong vũ trụ với vô số thiên hà và các hành tinh này chỉ có loài người là loài duy nhất tồn tại và loài người là sinh vật thông minh nhất trong vũ trụ to lớn này. Điều này ngược với quan điểm về các cõi giới (planes of existence) trong vũ trụ của văn minh Vệ Đà nói chung và vũ trụ quan Đạo Phật nói riêng [17]. Kinh điển Đạo Phật mô tả vũ trụ có ba cõi giới (tam giới).

- Cõi Dục là cõi xuất hiện dưới dạng vật chất, gồm các loài địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, con người và sáu loại chư thiên cõi dục (lục dục thiên).

- Cõi Sắc, cũng còn là cõi vật chất, là nơi các Phạm Thiên cư trú.

- Cõi Vô Sắc, hoàn toàn không cấu tạo bởi vật chất, là nơi các chư thiên cao siêu hơn cư trú.

Tại sao có rất nhiều người còn nghi ngờ hoặc không tin rằng có các loài sinh vật nào khác trong vũ trụ này? Có lẽ điều này do con người bình thường không thể tri giác được các thế giới của Chư Thiên (Deva) và Ngạ Quỷ (Peta).

Giới hạn của giác quan

Con người chỉ tri giác được trong năm giác quan của mình và đây chính là một giới hạn

Người có năng lực thiền định, có siêu giác quan có thể tri giác về các thế giới khác. Ví dụ trong kinh Trường Bộ DN 3, kinh A Ma Trú (Ambattha)

“Đoạn 21: Lúc bấy giờ, thần Dạ xoa Vajirapàni đang cầm một chùy sắt to lớn, cháy đỏ, sáng chói đứng trên đầu của thanh niên Ambattha với ý định: “Nếu Thế Tôn hỏi đến lần thứ ba, một câu hỏi hợp lý mà thanh niên Ambattha không trả lời, thời ta sẽ đánh bể đầu nó ra làm bảy mảnh”. Chỉ có Thế Tôn và thanh niên Ambattha mới thấy thần Dạ xoa Vajirapàni. Thanh niên Ambattha thấy vị thần ấy liền sợ hãi, hoảng hốt, lông dựng ngược, chỉ tìm sự che chở nơi Thế Tôn, chỉ tìm sự hỗ trợ nơi Thế Tôn, liền cúi rạp mình xuống và bạch Thế Tôn…”

Như vậy trong cùng một không gian, Đức Phật và thanh niên Amattha ở một thế giới này và Dạ Xoa Vajirapāni ở một thế giới khác! Chỉ có Đức Phật và Ambattha mới có thể thấy Dạ Xoa.

Ngoài ra, đối với đối tượng được nhìn, thì tùy theo đối tượng ấy có thể hoặc có muốn xuất hiện trước người nhìn hay không hay không? Nói cách khác đối tượng từ thế giới khác có khả năng hay có muốn hiển lộ trong thực tại của thế giới loài người hay không?

Trong chuyện Thiên CungMaṭṭakuṇḍalī, một đoàn thương buôn đói khát, đi lạc giữa sa mạc, bỗng gặp một thiên cung. Lời đối thoại với chủ nhân thiên cung như sau:

“…Xin ngài hãy nói tên (của ngài) là gì, có phải ngài là Dạ-xoa?”

“Tôi chính là Dạ-xoa tên Serissaka, sống ở sa mạc, là người canh giữ đầm cát. Tôi hộ trì khu vực này, là người thực thi mệnh lệnh của đức Vua Vessavaṇa.”

Trong trường hợp này Dạ Xoa cố ý xuất hiện trong thế giới loài người.

Thế giới đa chiều

Các thế giới đa chiều (multiverse worlds) hay các thế giới song song (parallel worlds): có nghĩa là trong một không gian xác định của địa cầu này cùng một lúc tồn tại nhiều thế giới khác, mà con người không biết, không thấy, không cảm nhận được.

Có đoạn kinh nói rằng một gia đình bị hỏa hoạn chết, sau đó tái sinh trong các cõi giới khác nhau. Có người tái sinh thành người, có người tái sanh thành ngạ quỷ, có người tái sanh thành chư thiên, nhưng vì nghiệp duyên, tất cả lại cư trú tại cùng một chỗ. Đây có thể là ví dụ về thế giới song song!

Khái niệm về vũ trụ song song đã được đề cập tới bới William Jame vào năm 1859. Sau đó được xây dựng thành một học thuyết vật lý “many worlds interpretation” (MWI) bởi Hugh Everett một nhà vật lý người Mỹ (1930-1982). Khái niệm về chiều (dimensions) của các thực tại (realities) đang được khoa học phổ biến. Thế giới mà con người bình thường có thể cảm nhận được là không gian ba chiều (3D – three dimensions). Hiện tại đã có giả thuyết về thực tại 4D, 5D, thậm chí đến thực tại 21 D!

Multiverse level

VI. Giả thuyết về mối liên hệ giữa các Thiên Cung bay và các vật thể bay không xác định (UFO)


Thiên Cung (Vimāna) có phải là Vật thể bay không xác định (UFO)?


Con người trên trái đất đã nhìn thấy các vật thể bay trong không trung, với đường bay và quỹ đạo lạ thường, không giống với hoạt động của các loại máy bay do loài người chế tạo. Nhờ phương tiện truyền thông phổ biến, các máy chụp hình, máy quay phim đã ghi lại vô số các vật thể bay không xác định. Những người làm việc có nhiệm vụ quan sát bầu trời như nhân viên kiểm soát không lưu, các phi công, các phi hành gia vũ trụ, các sĩ quan không quân, hải quân v.v…đã sưu tập rất nhiều hình ảnh, tài liệu về các vật thể bay không xác định (UFO: undefied flying object).

UFO in Mexico Jan 26th 2013


Trong thế kỷ 20 trước đây, các vật thể bay không xác định (UFO) không được các chính phủ trên thế giới xác nhận, ngược lại còn bị bác bỏ và cấm phổ biến (vì một lý do nào đó, mà ta hi vọng sẽ biết trong một ngày rất gần). Sang thế kỷ 21 này, một số các nhà nghiên cứu, nhà khoa học nghiên cứu UFO và người ngoài hành tinh (Aliens) đang tập trung nổ lực hình thành các phong trào [18] để buộc dư luận thế giới nói chung, và các chính phủ nói riêng, phải công bố các bằng chứng về sự thực có rất nhiều vật thể bay đã xuất hiện trên địa cầu, thậm chí có thể còn có các mối liên hệ bí mật giữa người ngoài hành tinh (Extraterrestrial Organism) với một số chính phủ!

Vậy có thê nào các vậy thể bay không xác định UFO chính là các thiên cung Vimāna được mô tả trong kinh điển và các sinh vật gọi là Aliens hay ET organisms chính là các loài người khác hoặc chư thiên cư trú gần với địa cầu?

VII. Người ngoài hành tinh (ET) có thể là ai?


Loài người từ các Châu khác


Theo Đạo Phật, loài người cư ngụ tại tất cả bốn châu. Người địa cầu chúng ta cư ngụ về phía Nam (của vũ trụ?) gọi là Nam Thiên Bộ Châu. Còn lại là Bắc Cu lô Châu, Đông Thắng Thần Châu và Tây Ngưu Hóa Châu. Như vậy, còn có những chủng người khác phát triển các nền văn minh riêng của họ ở tại các “châu” khác. Nếu sự hiện hữu của bốn Châu là đúng, thì người của các “Châu” khác có thể đi đến địa cầu bằng những vật thể bay. Vì cũng là người “nhân loại”, cùng sống trong một thế giới có không gian 3D nên ta có thể nhìn thấy họ!

Các chư thiên cõi Dục


Các chư thiên A Tu La (Asura) hoặc các chư thiên thuộc bốn Đại Thiên Vương (Catamāharajika) hoặc các chư thiên cao hơn nữa của trời Đao Lợi (Tettimsā) tất cả cũng có khả năng xuất hiện tại thế giới địa cầu, nếu như họ muốn. Các ví dụ nằm trong Chuyện Thiên Cung như đã đề cập ở phần trên. Người có năng lực thiền định hoặc có siêu giác quan có thể nhìn thấy chư thiên. Đối với người bình thường (không có siêu giác quan), thì chỉ có thể thấy chư thiên khi chư thiên có ý muốn xuất hiện.

Theo kinh điển thì chư thiên cõi Dục là những người có phước báu, có đời sống hạnh phúc hơn, có tuổi thọ cao hơn, tuy nhiên cũng tùy theo loại chư thiên, mà có người tốt hay có người xấu. Trong cõi Dục Giới, giữa các chư thiên (do còn dục) nên cũng có xung đột lẫn nhau. Theo truyền thuyết A Tu La ở cõi thiên là loài hiếu chiến hơn cả. Trong các bộ sử-thi thì từng có rất nhiều các trận chiến đã xảy ra trên cõi trời!
Tranh vẽ trận chiến giữa các chư thiên trên không trung


Các Phạm Thiên


Phạm Thiên (Brāhma) có rất nhiều đẳng cấp ở các tầng trời khác nhau thuộc cõi Sắc Giới. Đây là cõi “rất xa” với với địa cầu. Kinh Nikaya có thuật lại nhiều lần Phạm Thiên đã xuất hiện tại thế gian để nói chuyện với Đức Phật. Như vậy cũng có khả năng các Phạm Thiên vẫn đến trái đất nếu có mục đích nào đó! Phạm Thiên là các vị có năng lực thiền định, nên phải suy luận rằng: Các Pham Thiên, nếu muốn ,sẽ di chuyển bằng thần thông dễ dàng chứ không cần đến các phương tiện bay như chư thiên các cõi thấp hơn! Theo kinh Phạm Võng, Trường Bộ DN 01, Nguồn gốc loài người là do Quang Âm Thiên (còn gọi Biến Quang Thiên - Ābhassara) từ cõi Nhị Thiền của Phạm Thiên đến di trú tại địa cầu, sau đó thoái hóa dần!
VIII. Vài suy nghĩ

Bài viết ngắn này nhằm mục đích nêu lên bằng chứng về tính hiện thực của khái niệm “Thiên Cung-Vimāna” trong kinh điển đạo Phật, dù rằng đã từ lâu có nhiều người còn nghi hoặc! Hai nữa là để thử giải thích lại khái niệm “Thiên Cung-Vimāna” (vốn có màu sắc thần bí) theo quan điểm và cách nhận thức của thời hiện đại.

Nếu các vật thể bay không xác định – UFO chính là các Thiên Cung Bay, thì chúng đã được loài người ở địa cầu ghi nhận từ rất lâu, trong các bộ Sử thi, trong Đạo Phật và trong kinh điển của các tôn giáo ở Ấn Độ. Trong thời đại khoa học tiến bộ ngày nay, với các phương tiện như vệ tinh, máy bay, máy chụp hình, quay phim. các UFO cũng đã được nhìn thấy với vô số người chứng và vật chứng. Tuy nhiên vì một lý do nào đó, các chứng cứ không được các chính phủ xác nhận.

Không hiểu vì một thôi thúc gì, từ đầu năm 2013, trên thế giới đã xuất hiện phong trào đòi các chính phủ phải xác nhận về sự hiện diện của UFO và Aliens [18]. Hiện đã có khoảng hơn mười quốc gia (trong đó có Canada) đang cho phép công bố các chứng cớ về sự hiện diện của UFO và Aliens [19].

Nều sự kiện người ngoài hành tinh đã đến trái đất bằng các “phương tiện bay” được xác nhận, thì điều này chắc chắn sẽ làm thay đổi vũ trụ quan của loài người. Con người sẽ nhận ra Địa cầu không phải là trung tâm của vũ trụ. Thế giới ta đang sống không phải là thế giới duy nhất có sự sống có ý thức. Đồng thời con người sẽ nhận ra đẳng cấp thực sự của mình trong sự tương quan với các con người trong các thế giới khác.. Một số các học thuyết khoa học (ví dụ thuyết tiến hóa) và một số triết lý tôn giáo sẽ phải có đổ vỡ và sẽ phải chuyển biến rất lớn từ tận cùng nền tảng. Tất cả nhận thức mới sẽ khiến tâm thức con người thay đổi. Điều này dẫn đến sự hình thành một nền văn minh mới hơn và cao hơn! Phải chăng đây chính là sự thay đổi cần thiết cho trái đất vào lúc này!

Sài Gòn 21-06-2013

BS PHẠM DOÃN


CHÚ THÍCH:

[1] Đoạn viết về ý nghĩa chữ Vimāna ở đây được lược dịch theo từ điển Pāli- English của Pāli Text Society

http://dsalsrv02.uchicago.edu/cgi-bin/philologic/getobject.pl?p.3:100.pali

[2] Ngoài Vimānavatthupāli thuộc Tiểu Bộ Kinh, trong bốn bộ Nikaya còn lại, chỉ thấy chữ Vimāna xuất hiện trong:

Tăng Chi Bộ Kinh, chương bốn pháp, phẩm bánh xe, kinh Sư Tử (bản dịch của Thích Minh Châu)
Này các Tỷ-kheo, có chư Thiên tuổi thọ dài, có dung sắc, hưởng lạc nhiều, đã sống lâu trong các lâu đài to lớn.

Pāli: Yepi te, bhikkhave, devā dīghāyukā vaṇṇavanto sukhabahulā uccesu vimānesu ciraṭṭhitikā,

và Trường Bộ kinh DN1, kinh Phạm Võng, tụng phẩm 2, đoạn 3 và 4 (bản dịch của Thích Minh Châu)

3. Này các Tỷ-kheo, có một thời đến một giai đoạn nào đó, sau một thời hạn rất lâu, thế giới này chuyển thành. Trong khi thế giới này chuyển thành, Phạm cung được hiện ra, nhưng trống không. Lúc bấy giờ, một hữu tình, hoặc thọ mạng đã tận, hay phước báo đã tận, mạng chung từ Quang Âm thiên, sanh qua Phạm cung trống rỗng ấy. Vị ấy ở tại đấy, do ý sanh, nuôi sống bằng hỷ, tự chiếu hào quang, phi hành trên hư không, sống trong sự quang vinh, và sống như vậy trong một thời gian khá dài.

4. Vị này, tại chỗ ấy, sau khi sống lâu một mình như vậy, khởi ý chán nản, không hoan hỷ và có kỳ vọng: “Mong sao có các loài hữu tình khác, cũng đến tại chỗ này!” Lúc bấy giờ, các loài hữu tình khác, hoặc thọ mạng đã tận, hay phước báo đã tận, bị mệnh chung và từ thân Quang Âm thiên, sanh qua Phạm cung để làm bạn với vị hữu tình kia. Những loại hữu tình ở đấy cũng do ý sanh, nuôi sống bằng hỷ, tự chiếu hào quang, phi hành trên hư không, sống trong sự quang vinh, và sống như vậy, trong một thời gian khá dài.

Pāli: ‘‘Hoti kho so, bhikkhave, samayo, yaṃ kadāci karahaci dīghassa addhuno accayena ayaṃ loko vivaṭṭati. Vivaṭṭamāne loke suññaṃ brahmavimānaṃ pātubhavati. Atha kho aññataro satto āyukkhayā vā puññakkhayā vā ābhassarakāyā cavitvā suññaṃ brahmavimānaṃ upapajjati. So tattha hoti manomayo pītibhakkho sayaṃpabho antalikkhacaro subhaṭṭhāyī, ciraṃ dīghamaddhānaṃ tiṭṭhati. 41. ‘‘Tassa tattha ekakassa dīgharattaṃ nivusitattā anabhirati paritassanā upapajjati – ‘aho vata aññepi sattā itthattaṃ āgaccheyyu’nti. Atha aññepi sattā āyukkhayā vā puññakkhayā vā ābhassarakāyā cavitvā brahmavimānaṃ upapajjanti tassa sattassa sahabyataṃ [2]

[3] Chuyên Thiên Cung (bản dịch của Tỳ Khưu Indacanda http://www.paliviet.info/VHoc/30a/Vv_00.htm

[4] Thiên cung Sudhammā của Chúa Trời Sakka thuộc cõi trời Đạo Lợi

Sakka còn được gọi là Indra trong Ấn Độ giáo. Tuy nhiên có lý thuyết cho rằng Sakka và Indra là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau. Hơn nữa mô tả về Indra trong Ấn Giáo cũng khác với mô tả về Sakka trong Đạo Phật.

Wiki: The name Śakra “powerful” as an epithet of Indra is found in several verses of the Rigveda. In Buddhist texts, Śakra’s myth and character are very different from those of the Vedic Indra[dubious – discuss]. According to G.P. Malalasekara, “Sakka and Indra are independent conceptions. None of the personal characteristics of Sakka resemble those of Indra. Some epithets are identical but are evidently borrowed, though they are differently

http://en.wikipedia.org/wiki/%C5%9Aakra_%28Buddhism%29

Cư dân của cõi trời Đao Lợi tức cõi trời ba mươi ba (Tettimsā) có chiều cao 1500 feet và thọ mạng 1000 năm (mà mỗi ngày nơi đây bằng 100 năm địa cầu). Ở cõi Trời Ba Mươi Ba, một ngày đêm tương đương 100 năm ở cõi người, một tháng có 30 ngày, một năm có 12 tháng. Như vậy, “một ngàn năm thuộc cõi Trời” này bằng 3 koṭi và 60 trăm ngàn năm ở cõi người; tổng cộng là 36 triệu năm.

[5] Vimana ( http://en.wikipedia.org/wiki/Vimana)

[6] “O Rama of unequalled prowess! The aerial car shining like the sun, which moves as one pleases, wonderful and excellent, named Pushpaka of Kubera my brother was robbed by the mighty Ravana after conquering Kubera in battle. May prosperity attend you! It is retained there for your sake. The yonder aerial car, looking like a cloud, stands here and by which transport, you can reach Ayodhya without any trouble.”

Sử thi Ramayana (http://www.valmikiramayan.net/yuddha/sarga121/yuddha_121_prose.htm)

[7] Pushpaka Vimana

http://en.wikipedia.org/wiki/Pushpaka_Vimana#Ramayana

[8] Sanskrit:

कांचनम्रथम्आस्थायकामगम्रत्नभूषितम्|

पिशाचवदनैःयुक्तम्खरैःकनकभूषणैः || ३-३५-६
मेघप्रतिमनादेनसतेनधनदअनुजः |
राक्षसाधिपतिःश्रीमान्ययौनदनदीपतिम् || ३-३५-७

English: That chariot which is decorated with golden ornaments, yoked with monster-faced mules that have gem studded trappings is ride-able by the wish of the rider, and sitting in such a chariot which is wholly golden and which rides with a sound like the pealing of thunder, that celebrated Ravan, the brother of Kuber and the lord of demons, traveled towards the lord of rivers and rivulets, namely the ocean.

(the 121st chapter in Yuddha Kanda of Valmiki Ramayana, the First Epic poem of India.

http://www.valmikiramayan.net/yuddha/sarga121/yuddha_121_prose.htm)

[9] Sanskrit:
ततह्सपुष्पकंदिव्यंसुग्रीवःसहवानरैः || ६-१२२-२४
आरुरोहमुदायुक्तःसमात्यश्चविभीषणः|

Engkish: Thereupon, that Sugreeva along with the monkeys gladly ascended that wonderful Pushpaka, the aerial car. Vibhishan together with his counselors also ascended it.

(the 122nd chapter in Yuddha Kanda of Valmiki Ramayana
http://www.valmikiramayan.net/yuddha/sarga122/yuddha_122_prose.htm)

[10] Sanskrit:

तेष्वारूढेषुसर्वेषुकौबेरम्परमासनम् || ६-१२२-२५
राघवेणाभ्यनुज्ञातमुत्पपातविहायसम्|

English: When all of them ascended, that excellent aerial car, belonging to Kuber, flew into the sky, after having been duly authorized by Rama.

(the 122nd chapter in Yuddha Kanda of Valmiki Ramayana
http://www.valmikiramayan.net/yuddha/sarga122/yuddha_122_prose.htm

[11] Dandu Monara: http://en.wikipedia.org/wiki/Dandu_Monara

[12] Chú thích của ảnh:
Rama leaves Lanka in the Pushpaka Vimana
Ramayana – Pahari School, Himachal Pradesh, c. 1650 . Binney Collection

[13] Tài liệu hình ảnh về Thiên Cung Bay và UFO

(http://bsphamdoan.wordpress.com/mot-so-hinh-anh-tai-lieu/tai-lieu-02/)

[14] Vaimānika Shāstra: (http://en.wikipedia.org/wiki/Vaim%C4%81nika_Sh%C4%81stra)

[15] Nền Tảng Phật Giáo – Quyển 1Tỳ khưu hộ pháp

http://trungtamhotong.org/NoiDung/ThuVien/TamBao/TamBao3.htm

[16] Trường Bộ, DN 11, kinh Kiên Cố (Kevattha sutta)

[17] Người và Cõi (Puggala Bheda bhūmi)

http://bsphamdoan.wordpress.com/2013/06/18/nguoi-va-coi-puggala-bheda-bhumi/

[18] Bộ phim tài liệu Sirius nói về nổ lực của Bs Steven Greer, nhằm công bố các tài liệu, nhân chứng, vật chứng, về UFO và Alien

Toàn bộ phim SIRIUS 8 phần – Có phụ đề Việt ngữ
(Download rất nhanh – down phần nào, xem được phần đó)
http://www.mediafire.com/?a7rhdm67284c6

[19] Cựu bộ trưởng quốc phòng Canada (thập niên 60) Paul Hellyer(http://en.wikipedia.org/wiki/Paul_Hellyer) vừa công bố xác nhận
- sự hiện diện của người ngoài hành tinh (ET).
- Tiết lộ rằng có 2 gười ET đã cộng tác với chính phủ Mỹ

Video mới nhất về cuộc họp với chủ tọa của dân biểu quốc hội Merryl Hand Cook:
http://www.youtube.com/watch?v=BQEqhx5L-48&feature=em-subs_digest&list=TLKx2SvVQyFjA
Muốn xem phụ đề tiếng Anh:Click vào ô cc , ở thanh ngang bên dưới cửa sổ Youtube,
Chọn automatic Engglish caption.
Phụ đề Tiếng Anh này là “dịch âm thanh ra chữ”
nên nếu người nói phát âm sai, thì bản dịch bằng chữ sẽ không đúng!